Chuyển dịch sang nền KTTH: từ hoạch định đến hành động

Năm năm để hành động

Năm 2025 đã cận kề. Chúng ta chỉ còn năm năm nữa để đạt được các mục tiêu năm 2030 đã đề ra trong các Mục tiêu Phát triển Bền vững và Chiến lược Phát triển Kinh tế – Xã hội của Việt Nam. Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu đạt GDP bình quân đầu người 7.500 USD, tăng độ che phủ rừng lên 42%, thiết lập các khu bảo tồn biển chiếm 3-5% diện tích vùng biển, đảm bảo 95% nước thải đô thị được thu gom và xử lý, giảm 15,8% lượng phát thải khí nhà kính.

Những mục tiêu đầy tham vọng này phản ánh cam kết của Việt Nam đối với sự phát triển bền vững và hạnh phúc của người dân. Để đạt được những điều này, đòi hỏi những nỗ lực tập trung và phối hợp trong vòng năm năm tới.

Tuy nhiên, trên con đường hướng tới các mục tiêu này, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức đáng kể. Hà Nội gần đây đã được xếp hạng là thành phố ô nhiễm thứ hai trên thế giới, với Chỉ số Chất lượng Không khí (AQI) là 210. Vài tháng trước, bão Yagi đã tàn phá các tỉnh phía Bắc, cướp đi sinh mạng và kế sinh nhai của người dân, đồng thời gây thiệt hại nặng nề về cơ sở hạ tầng. Trong khi đó, căng thẳng địa chính trị và thương mại toàn cầu vẫn tiếp diễn, và Việt Nam phải cân bằng mục tiêu phát triển nhanh chóng với sự phức tạp của cải cách cơ cấu.

Từ Hoạch định đến Hành động

Kinh tế tuần hoàn (KTTH) mang đến một giải pháp mạnh mẽ cho những thách thức về tính bền vững mà chúng ta đang phải đối mặt. Về cốt lõi, KTTH được xây dựng trên tiền đề rằng vật liệu, bằng thiết kế, có thể được tái sử dụng và chuyển đổi gần như vô hạn. Trên thực tế, các hoạt động tuần hoàn từ lâu đã là một phần không thể thiếu trong hành trình của Việt Nam, phát triển từ hệ thống “vườn-ao-chuồng” truyền thống sang mô hình cộng sinh công nghiệp tiên tiến hơn trong các khu công nghiệp.

Trong khi nền tảng đã được đặt ra và khung chính sách đã được thiết lập, thì giờ là lúc cần nhanh chóng chuyển đổi từ Hoạch định sang Hành động. Trong bối cảnh này, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), đã xây dựng một tầm nhìn hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy một chương trình nghị sự chuyển đổi, hướng tới một Nền kinh tế Tuần hoàn Ít Carbon và Bao trùm.

Dựa trên Luật Bảo vệ Môi trường sửa đổi năm 2020, chúng tôi sẽ tập trung chuẩn bị cho các doanh nghiệp Việt Nam cho quá trình chuyển đổi xanh, định hình lại mô hình tiêu dùng và sản xuất, ưu tiên thiết kế tuần hoàn, tạo điều kiện cho các dòng tài chính, thúc đẩy các phương pháp tiếp cận đáp ứng yếu tố giới và đảm bảo một quá trình chuyển đổi công bằng, không ai bị bỏ lại phía sau.

Chuyển từ Hoạch định sang Hành động thông qua chiến lược tích hợp

Làm thế nào để chúng ta có thể chuyển đổi nền KTTH từ hoạch định sang hành động trong khung thời gian năm năm do Chính phủ Việt Nam và các thỏa thuận quốc tế đặt ra? Một trong những chiến lược quan trọng là ‘tích hợp’.

Để biến KTTH thành hiện thực, cách tiếp cận không thể nào tách riêng thành một chủ đề độc lập, mà phải là một phương pháp tiếp cận tích hợp. Trên cơ sở đó, UNDP đề xuất bốn cách hướng đi:

  1. Lồng ghép thiết kế vào Chính sách nền tảng của KTTH

Ở cấp độ chính sách, đóng vai trò là “chiếc ô” cốt lõi cho quá trình chuyển đổi tuần hoàn, các biện pháp và ưu đãi phải được triển khai nhanh chóng. Ví dụ, Trách nhiệm Mở rộng của Nhà sản xuất (EPR) lần đầu tiên được ban hành trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2022 và kể từ đó đã được công nhận rộng rãi là một trong những công cụ chính sách hiệu quả nhất thúc đẩy tái chế trên toàn thế giới. Tuy nhiên, nó vẫn còn thiếu các văn bản hướng dẫn thiết yếu. Những hạn chế bao gồm việc thiếu hướng dẫn về hệ số (FS); các ưu đãi không rõ ràng đối với các ngành công nghiệp để đóng góp tài chính, tham gia tự tái chế hoặc sử dụng các tổ chức trách nhiệm của nhà sản xuất (PRO); cũng như không có cơ chế rõ ràng để giải ngân số tiền khoảng 1.400 tỷ đồng (55.123.000 USD) do Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam quản lý.

Ngoài ra, Việt Nam cần áp dụng lộ trình hoặc luật về thiết kế sinh thái, đặt ra các nhiệm vụ rõ ràng cho các bộ, ngành liên quan. Vì có tới 80% tác động đến môi trường có thể được xác định và giảm thiểu ở giai đoạn thiết kế sản phẩm, nên luật này có thể đóng vai trò là chất xúc tác cho sự đổi mới trong vật liệu và dịch vụ tuần hoàn – những thành phần quan trọng của quá trình chuyển đổi. Bằng cách suy nghĩ lại về thiết kế, các doanh nghiệp cũng có thể phù hợp hơn với kỳ vọng xã hội và các yêu cầu pháp lý đang phát triển. Phương pháp này hiệu quả nhất khi kết hợp với các chính sách về ‘mua sắm công xanh’, tận dụng sức mua của chính quyền địa phương và trung ương để kích thích tiêu dùng và sản xuất bền vững. Một bước tiếp theo quan trọng sẽ là phát triển các yêu cầu thiết kế sinh thái định lượng, bắt buộc, chi phối các chỉ số như tỷ lệ tái chế, tuổi thọ sản phẩm, cường độ năng lượng và hàm lượng tái chế, để phù hợp với các nguyên tắc EPR.

Để tham khảo, Liên minh Châu Âu đã giới thiệu Quy định Thiết kế Sinh thái cho Sản phẩm Bền vững (ESPR), có hiệu lực vào tháng 7 năm 2024, đóng vai trò là thành phần quan trọng trong Kế hoạch Hành động Kinh tế Tuần hoàn năm 2020 của EU. Quy định này được thiết kế để thiết lập các sản phẩm bền vững làm tiêu chuẩn trên thị trường EU.

  1. Lồng ghép Thực hành Kinh tế Tuần hoàn vào các Ngành Ưu tiên

Là một quốc gia định hướng ra nước ngoài, tăng trưởng của Việt Nam gắn liền với thương mại quốc tế và kết nối toàn cầu. Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhất trong khu vực, được thúc đẩy bởi các ngành chủ chốt như điện tử và dệt may. Đáng chú ý, thị trường quốc tế ngày càng ưa chuộng các sản phẩm xanh. Các doanh nghiệp có thể thích ứng để đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững toàn cầu đã đi trước đón đầu.

Việc chuyển đổi sang KTTH không chỉ là điều bắt buộc về môi trường và khí hậu, mà còn mang đến những cơ hội kinh doanh chưa được khai thác cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Các chính sách như Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon của Liên minh Châu Âu (CBAM) có vẻ còn xa vời nhưng sẽ có tác động trực tiếp đến các bên liên quan khác nhau ở Việt Nam. Bao gồm ngư dân nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long, người trồng cà phê ở Tây Nguyên và các hợp tác xã do phụ nữ lãnh đạo trồng thanh long ở tỉnh Bình Thuận. Tại sao? Bởi vì các chính sách này đều nhúng các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt trong ứng dụng của chúng. Liệu những tiêu chuẩn này có nằm ngoài tầm với của hàng nghìn nông dân và doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa đang thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam? Không. Nhưng chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ để duy trì các tiêu chuẩn này chưa? Thật không may, câu trả lời cũng là không. Đây chính là nơi sức mạnh chuyển đổi của các hoạt động kinh tế tuần hoàn có thể tạo ra sự khác biệt. Bằng cách áp dụng các phương pháp tuần hoàn, một số phân ngành có thể đạt được lợi thế cạnh tranh so với các khu vực lân cận.

Trong bối cảnh này, UNDP khuyến nghị ưu tiên các ngành có tiềm năng cao hơn, chẳng hạn như nông nghiệp, điện tử, nhựa và dệt may. Trong những lĩnh vực này, chúng tôi đã xác định được các phương pháp hay nhất và những cơ hội dễ nắm bắt có thể được tận dụng, miễn là các điều kiện thuận lợi được thiết lập nhanh chóng. Ví dụ: (i) tái sử dụng các sản phẩm phụ nông nghiệp để giảm thiểu chất thải nông nghiệp và cuối cùng là giảm phát thải khí nhà kính thông qua các dự án thí điểm do UNDP và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thực hiện trong chuỗi giá trị cà phê, gạo và thanh long; (ii) thúc đẩy tái sử dụng nước thải công nghiệp, để cắt giảm cả việc xả thải nước thải và nhu cầu cung cấp nước ngọt; (iii) tăng cường thu gom và phân loại chất thải ở cấp tỉnh để thúc đẩy tái chế, được minh họa bằng một dự án do Na Uy tài trợ do UNDP thực hiện với sự hợp tác của thành phố Quy Nhơn.

Việt Nam hiện là nơi có 26.000 Doanh nghiệp Tác động Xã hội, nhưng để thúc đẩy tăng trưởng trong tương lai, cần ưu tiên những tiến bộ công nghệ thông qua việc tăng cường đầu tư vào giáo dục đại học, nghiên cứu và đổi mới, tạo ra sự lan tỏa cho việc xây dựng năng lực quốc gia về kinh tế tuần hoàn.

  1. Lồng ghép Chuyển đổi Kinh tế Tuần hoàn trong các cải cách thể chế hiện hành

Như Tổng Bí thư Tô Lâm gần đây đã nhấn mạnh tại Hội nghị lần thứ 8, thể chế vẫn là “nút thắt cổ chai của nút thắt cổ chai”, cản trở sự phát triển bền vững của đất nước. Cải cách sâu rộng là rất quan trọng để thúc đẩy đổi mới và thúc đẩy thay đổi. Vậy, những điều này liên quan như thế nào đến kinh tế tuần hoàn?

Khái niệm kinh tế tuần hoàn có thể cung cấp một khuôn khổ cho sự đổi mới do chính phủ lãnh đạo. Nó là hiện thân của một phương pháp tiếp cận mang tính hệ thống để hình dung sự phát triển khuyến khích thử nghiệm, hỗ trợ các công ty khởi nghiệp và thu hút đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; tất cả đều tạo thành xương sống của quá trình chuyển đổi tuần hoàn. Chúng ta hãy xem một số ví dụ.

Mặc dù Điều 74 Nghị định 08 hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường có đề cập đến việc tái sử dụng nước thải đã qua xử lý, nhưng đây vẫn là một quá trình đầy thách thức đối với các doanh nghiệp vì việc xin cấp phép môi trường rất tốn thời gian và các cơ quan chức năng thường do dự cấp phép do có sự tham gia của nhiều cơ quan chính phủ — chẳng hạn như những cơ quan giám sát kiểm soát ô nhiễm môi trường, quản lý tài nguyên nước và an toàn công nghiệp. Sự phức tạp và trách nhiệm pháp lý tiềm ẩn này có thể khiến các cơ quan chức năng không ủng hộ việc tái sử dụng nước thải đã qua xử lý.

Tương tự, trong ngành nhựa, sự chênh lệch về chi phí giữa nhựa nguyên sinh và nhựa tái chế vẫn là một rào cản lớn đối với việc tăng sử dụng hàm lượng tái chế trong bao bì. Để khắc phục điều này, cần có sự nỗ lực phối hợp và liên ngành để tạo ra các ưu đãi hiệu quả cho các công ty sử dụng hàm lượng vật liệu tái chế cao hơn. Điều này sẽ liên quan đến Bộ Tài chính (đưa ra các ưu đãi về thuế hoặc trợ cấp), Bộ Công Thương (thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua các khoản tài trợ hoặc chính sách theo Quyết định 889) và Bộ Tài nguyên và Môi trường (tăng cường EPR bằng cách quy định hàm lượng tái chế tối thiểu). Tuy nhiên, việc phân công trách nhiệm giữa các bộ này thường dẫn đến sự chậm trễ và kém hiệu quả, khiến các doanh nghiệp khó nhận được sự hỗ trợ toàn diện và kịp thời cần thiết cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn.

Bằng cách cải thiện khuôn khổ quản trị, tinh giản quy trình pháp lý và loại bỏ các rào cản quan liêu, Việt Nam có thể thúc đẩy một môi trường nơi đổi mới cho kinh tế tuần hoàn phát triển mạnh mẽ. Một khuôn khổ thể chế nhanh nhạy và đáp ứng hơn sẽ trao quyền cho các doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và cá nhân dẫn dắt các giải pháp chuyển đổi giải quyết các thách thức xã hội, từ ô nhiễm không khí đến suy thoái môi trường.

  1. Lồng ghép Người dân và Khu vực Tư nhân cho một Quá trình Chuyển đổi Công bằng và Bao trùm triển khai quan hệ đối tác sáng tạo

Các hoạt động tuyến tính cũng ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Trên toàn cầu, ô nhiễm không khí gây ra khoảng 7 triệu ca tử vong mỗi năm. Năm 2023, Việt Nam được xếp hạng là quốc gia ô nhiễm thứ hai trong khu vực ASEAN. Mặc dù tất cả mọi người đều bị ảnh hưởng, nhưng các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em và người già và những người sống gần nơi đốt rác thải lộ thiên là những người có nguy cơ cao nhất.

Do đó, Việt Nam phải tiếp tục đặt ‘con người’ và các cân nhắc về công bằng xã hội làm trọng tâm của quá trình chuyển đổi tuần hoàn để đảm bảo nó công bằng và bao trùm. Mệnh lệnh đạo đức này được phản ánh, ví dụ, trong Quan hệ Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng được thông qua gần đây.

Có những dấu hiệu của hy vọng. Trong những năm gần đây, chúng ta đã thấy những nỗ lực đầy cảm hứng của sinh viên, hợp tác xã và các tỉnh — tất cả đều nỗ lực để luân chuyển vật liệu và tài nguyên càng lâu càng tốt. Nỗ lực này làm giảm áp lực môi trường theo hai cách: bằng cách làm chậm tốc độ chúng ta khai thác các tài nguyên như đất, cát và đá vôi từ các hệ sinh thái và bằng cách giảm đáng kể việc thải chất ô nhiễm vào không khí, vùng biển, lưu vực sông và đất liền. UNDP đang tích cực xây dựng năng lực cho thanh niên, chiếm 25% dân số và là lực lượng lao động tương lai của chúng ta. Thông qua các hoạt động của Nhóm Công tác Chính sách Thanh niên thuộc Sáng kiến ​​Youth4Climate, chúng tôi đang trang bị cho những người trẻ tuổi để họ đóng vai trò lãnh đạo trong quá trình chuyển đổi này.

Hơn nữa, cần có sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp và trường đại học để tăng cường mối liên kết giữa chính sách, nghiên cứu và cơ hội thị trường. Chúng tôi không thể nói quá tầm quan trọng của quan hệ đối tác. UNDP vinh dự được đồng tổ chức Trung tâm Kinh tế Tuần hoàn Việt Nam với Bộ Tài nguyên và Môi trường, nơi tự hào có hơn 100 thành viên và 4.000 người xem hàng tháng. Chúng tôi cũng tự hào hỗ trợ các sáng kiến ​​ngành: Quan hệ Đối tác Hành động Quốc gia về Nhựa (NPAP) và Quan hệ Đối tác Chuyển đổi Hệ thống Thực phẩm. Tất cả chúng đều mang đến những cơ hội chưa từng có để chuyển đổi tầm nhìn chung về chuyển đổi kinh tế tuần hoàn được nêu trong các chính sách của Việt Nam thành những hành động hữu hình do các chủ thể cùng nhau thực hiện hướng tới một mục tiêu chung.

UNDP sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong việc ưu tiên các cải cách tạo ra một hệ sinh thái hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi. Chúng tôi mong muốn trở thành động lực hỗ trợ đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế xanh hơn, tuần hoàn và ít carbon hơn, mang lại nhiều lợi ích chung, chẳng hạn như bảo vệ sức khỏe con người và hệ sinh thái, thúc đẩy các mục tiêu khí hậu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đã đến lúc hành động.

Chia sẻ

(10)